Lịch sử hoạt động Canadair_Sabre

Thế hệ thứ hai của máy bay Canadair Sabre và là thế hệ đầu tiên được chế tạo với số lượng lớn là Mk.2, có 350 chiếc được chế tạo trong giai đoạn 1952-1953. RCAF nhận 290 chiếc đã được cải tiến. Trong nửa đầu năm 1952, 60 chiếc Mk.2 còn lại được cung cấp cho Không quân Mỹ để sử dụng trong Chiến tranh Triều Tiên. Hầu hết những chiếc Sabre Mk.2 của RCAF được sử dụng trong vai trò phòng không thuộc Sư đoàn không quân số 1 của RCAF đóng ở châu Âu, nó đã chứng tỏ vai trò không chiến tầm gần nổi bật. Những chiếc khác được giao vai trò huấn luyện ở các căn cứ tại Canada. Sau khi Sabre Mk.5 thay thế trong biên chế RCAF vào năm 1954, chỉ hơn 210 chiếc Sabre Mk.2 còn sót lại được đại tu và sửa đổi ở Anh, chúng được cung cấp cho Không quân Hy LạpKhông quân Thổ Nhĩ Kỳ.[2]

Canadair Sabre Mk.2 sơn phù hiệu Không quân Hy Lạp năm 1955

Giữa năm 1952, Sabre Mk.4 được đưa vào sản xuất, chiếc đầu tiên bay vào ngày 28/8/1952. Ngoài một số thay đổi hệ thống và cấu trúc nhỏ, gồm cải tiến hệ thống ngắm của súng và điều hòa không khí, thì Mk.2 và Mk.4 giống hệt nhau. Có 438 chiếc Mk.4 được chế tạo, khoảng 70 chiếc được RCAF sử dụng tạm thời, tất cả những chiếc khác được giao cho RAF. Những chiếc Sabre Mk.4 khác được gửi trực tiếp cho RAF dưới chương trình hỗ trợ lẫn nhau, chúng được trang bị cho 11 phi đoàn của RAF. Phần lớn những chiếc Mk.4 này phục vụ ở Tây Đức trong các đơn vị NATO, ngoài những phi đoàn đóng ở Tây Đức còn 2 phi đoàn đóng ở Vương quốc Anh thuộc Bộ chỉ huy Tiêm kích RAF. Sabre Mk.4 được RAF sử dụng cho đến tận giữa năm 1956 khi chúng bị những chiếc Hawker Hunter thay thế. Những chiếc còn sống sót được đại tu ở Anh, trang bị cánh sửa đổi '6-3' và được giao cho USAF và sau đó chúng lại được chuyển cho các thành viên của NATO, phần lớn cho Italy, ngoài ra còn giao cho Nam Tư.

Ngày 30/7/1953, chiếc Sabre Mk.5 đầu tiên đã thực hiện chuyến bay của mình với động cơ Orenda 10, động cơ này giúp Mk.5 có vận tốc leo cao và trần bay tốt hơn so với các phiên bản trước đó. Ngoài ra Mk.5 còn có một số cải tiến khác như một hệ thống tạo oxy mới, cải thiện khả năng cơ động và bay ở vận tốc thấp nhờ tăng dây cung cánh lên 6 in (15,2 cm) ở gốc cánh và 3 in (7,2 cm) ở đầu cánh cùng với việc lắp thêm một tấm chắn cánh đứng nhỏ. Sửa đổi này bắt nguồn do North American thực hiện trên F-86F, đã cải thiện đáng kể khả năng cơ động, bù lại máy bay sẽ không còn cánh tà trước khiến tốc độ hạ cánh tăng lên và việc xử lý máy bay ở vận tốc thấp giảm xuống. Canadair đã chế tạo 370 chiếc Mk.5, phần lớn được sử dụng trong các phi đoàn thuộc Sư đoàn không quân của RCAF đóng tại châu Âu để thay thế cho loại Mk.2. Tổng cộng có 75 chiếc Sabre Mk.5 của RCAF được chuyển giao cho Luftwaffe trong năm 1957.

Canadair Sabre Mk.6 là phiên bản cuối cùng là được coi là phiên bản Sabre tốt nhất từng được sản xuất.[3] Nó trang bị một động cơ Orenda hai tầng tạo lực đẩy lên tới 7.275 lb (3.302 kg). Khả năng cơ động, leo cao và bay trên độ cao lớn của nó cũng vượt trội so với Mk.5 và nó cũng được gắn lại cánh tà trước giúp máy bay xử lý tốt hơn ở vận tốc thấp. Kiểu sản phẩm đầu tiên được hoàn thành vào 2/11/1954 và có 655 chiếc được chế tạo, dây chuyền chế tạo Mk.6 đóng cửa vào ngày 9/10/1958.

Tổng cộng có 390 chiếc Mk.6 được trang bị cho RCAF, chúng được sử dụng để thay thế cho những chiếc Canadair Sabre Mk.5 trong các phi đoàn thuộc Sư đoàn không quân đóng ở Tây ĐứcPháp. Trong thập niên 1950, những mối đe dọa trên không đối với NATO ở Trung Âu là những phiên bản đời đầu máy bay MiG của Liên Xô như MiG-15, MiG-17, MiG-19MiG-21. Dựa trên những kinh nghiệm trong Chiến tranh Triều Tiên, việc lựa chọn Sabre Mk.6 để tác chiến với những chiếc MiG là lựa chọn hợp lý của NATO. Cam kết của Canada đối với NATO là triển khai 12 phi đoàn đóng quân tại 4 căn cứ ở châu Âu - 2 ở Pháp (MarvilleGrostenquin) và 2 ở Tây Đức (ZweibrückenBaden Soellingen). Ban đầu, Canada chỉ đóng góp máy bay Sabre, nhưng sau đó còn có thêm Avro Canada CF-100 trong vai trò máy bay tiêm kích đêm và tiêm kích mọi thời tiết.

Ngoài những chiếc Mk.6 trang bị cho RCAF, còn có 225 chiếc Canadair Mk.6 Sabre được xuất khẩu cho Luftwaffe, 6 chiếc cho Không quân Colombia và 34 chiếc cho Không quân Nam Tư.

Canadair Sabre đã tham gia tích cực trong 2 cuộc xung đột lớn mà chúng được triển khai: đó là Chiến tranh Triều TiênChiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971. Tháng 1/1966, Đức bán 90 chiếc Canadian Mk.6 của mình cho Iran, sau đó Iran đã chuyển qua cho Pakistan. Những chiếc máy bay này nhanh chóng trở thành máy bay tiêm kích ngày chính trong Không quân Pakistan.

Tới cuối năm 1971, những chiếc Gnat của Không quân Ấn Độ (IAF) trở thành một đối thủ khó chịu vượt trội về mặt kỹ thuật đối với những chiếc Sabre, và IAF đã đặt nickname cho Gnat là "Sabre Slayers" sau những thành tích của Gnat trong 2 cuộc chiến tranh đối đầu với Sabre. Gnat nhẹ và có hình dáng thon gọn, nó rất khó để nhìn thấy, đặc biệt là ở độ cao thấp, nơi thường diễn ra các cuộc không chiến tầm gần.

Kỷ lục tốc độ của phái yếu

Năm 1952, Jacqueline Cochran lúc đó đã 47 tuổi quyết định thách thức kỷ lục tốc độ thế giới dành cho nữ giới đang do Jacqueline Auriol nắm giữ. Cochran cố gắng mượn một chiếc F-86 từ USAF, nhưng thất bại. Sau đó bà được giới thiệu với một thiếu tướng của RCAF, ông đã thuyết phục Bộ trưởng quốc phòng Canada cho phép cho mượn một chiếc Sabre Mk.3 số seri 19200. Hãng Canadair đã gửi một đội hỗ trợ gồm 16 người tới California để giúp sức. Ngày 18/5/1953, Cochran đã thiết lập một kỷ lục vận tốc mới trên quãng đường dài 100 km, bà đạt vận tốc 1.050,15 km/h (652,5 mph). Ngày 3/6, bà lại tiếp tục thiết lập một kỷ lục bay một vòng kín 15 km với vận tốc 1078 km/h (670 mph). Ngoài ra, trong lúc ở California, bà đã vượt vận tốc 1270 km/h khi bổ nhào và trở thành người phụ nữ đầu tiên vượt vận tốc âm thanh.[4]

Golden Hawks

Xem thêm thông tin: Golden Hawks

Golden Hawks là đội bay biểu diễn của Canada được thành lập năm 1959 nhân kỷ niệm 35 năm thành lập RCAF và 50 chuyến bay "Golden" trong lịch sử hàng không Canada, bắt đầu với AEA Silver Dart năm 1909. Ban đầu, một đội 6 chiếc Canadair Sabre Mk.5 sơn màu vàng kim loại được hình thành để hoạt động trong thời gian 1 năm, nhưng Golden Hawks đã trở nên nổi tiếng sau khi trình diễn 63 show. Năm sau đó, một máy bay được bổ sung cho đội, cho phép một đội hình chính gồm 5 chiếc và 2 chiếc bay đơn. Golden Hawks tiếp tục biểu diễn thêm 3 mùa giải nữa, sau đó đổi sang dùng loại mk.6 vào năm 1961, cho đến khi bị giải thể ngày 7/2/1964, tổng cộng đội đã biểu diễn 317 show ở khắp Bắc Mỹ.[5] Tháng 6/1964, 2 máy bay thuộc Golden Hawk đã được bán cho Lynn Garrison, một phi công cũ của RCAF, ông đã thành lập Bảo tàng hàng không Canada năm 1964. Một chiếc được đăng ký với tên gọi CF-AMH và do phi công Milt Harradence điều khiển. Chiếc kia được Lynn Garrison vận hành và sau đó là Flight Test Research ở Long Beach, California. Nó bị phá hủy trong một nhiệm vụ thử nghiệm ở sa mạc Mojave.